Phó thủ tướng Vũ Đức Đam: “200.000 cử nhân thất nghiệp là bình thường”

0
1154

Về con số 200.000 người có trình độ đại học thất nghiệp, Phó thủ tướng cho biết, tính ra tỉ lệ thì con số này ở Việt Nam chỉ chiếm 4% tổng số người có trình độ đại học. Trong khi đó, trên thế giới con số trung bình này là 7%.

Phó thủ tướng Vũ Đức Đam tham gia giải trình trong phiên chất vấn Quốc hội sáng ngày 6/6.

Tham gia giải trình sáng ngày 6/6 trong buổi chất vấn Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam nói rằng việc có nhiều câu hỏi, ý kiến của đại biểu Quốc hội, cử tri quan tâm là điều rất mừng đối với ngành giáo dục. Kết lại, Phó thủ tướng chọn 5 vấn đề để làm rõ.

Tỉ lệ cử nhân thất nghiệp của Việt Nam thấp so với thế giới

Về con số 200.000 người có trình độ đại học thất nghiệp được nhiều đại biểu quốc hội quan tâm chất vấn, Phó thủ tướng cho biết, tính ra tỉ lệ thì con số này ở Việt Nam chỉ chiếm 4% tổng số người có trình độ đại học.

Trong khi đó, trên thế giới con số trung bình này là 7%. Chính vì vậy, đây cũng là thực trạng bình thường và chúng ta không nên nghĩ rằng, cứ học đại học xong là phải có việc 100%. Việc một tỉ lệ nhất định người dù học tất cả các bậc nhưng không có việc là chuyện bình thường ở thế giới, chính điều đó sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh, vươn lên của các cơ sở giáo dục.

Biện pháp khắc phục tình trạng cử nhân thất nghiệp

“Để khắc phục tình trạng này, có rất nhiều việc phải làm, tôi đề nghị Quốc hội, nhân dân ủng hộ đồng tình giải pháp đẩy mạnh hướng nghiệp ngay từ trung học cơ sở. Đừng lo học xong trung học sang học nghề thì sẽ không đủ kiến thức bởi cả thế giới người ta làm vậy. Trong quá trình dạy nghề không có nghĩa là chúng ta không dạy tiếp văn hóa, kiến thức, chỉ có điều dạy theo cách của người làm nghề”, Phó thủ tướng nhấn mạnh.

Thứ hai, phải nâng cao chất lượng của giáo dục đại học. Muốn vậy, nhất định phải đẩy mạnh tự chủ đại học, tăng cường kiểm định và xếp hạng đại học.

Thứ ba, chúng ta nên công khai về công tác phân tích qua tình hình tuyển sinh những năm vừa rồi để có định hướng cho các cháu học ngành nghề nào thì tương lai việc làm tốt hơn.

“Báo cáo Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo Bộ Giáo dục tiến hành khảo sát năm 2017, các trường có điểm đầu vào trên 27 điểm thì tỷ lệ sinh viên ra trường sau 12 tháng có việc làm (tính từ năm 2016 đổ lại) là 96%. Nhóm trường 24-27 điểm, tỷ lệ sinh viên có việc là 92%; nhóm trường từ 20-24 điểm là 84%; nhóm trường từ 15,5-20 điểm là 89%. Tỉ lệ chung lại các sinh viên ra trường trong 12 tháng từ 2016-2017 khảo sát có việc làm là xấp xỉ 90%, chỉ 11,3% không kiếm được việc làm.

Đương nhiên, những việc làm này không hẳn là đúng trình độ đại học vì khảo sát cũng cho thấy, 19% số các cháu tốt nghiệp đại học nhưng ra trường làm công việc không xứng đáng với bậc học”, Phó Thủ tướng nói.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cũng cho hay, trong các nhóm ngành đào tạo thì nhóm ngành khoa học, giáo dục và giáo viên có tỷ lệ ra trường không tìm được việc làm cao nhất (19%). Nhóm thứ hai, nhóm liên quan đến các dịch vụ xã hội tỉ lệ không kiếm được việc làm cũng là 19%. Nhóm thứ ba về môi trường, tỉ lệ không kiếm được việc làm là 17%. Nhóm thứ 4 về pháp luật, tỉ lệ thất nghiệp là 17%. Nhóm ngành học về văn hóa, thể thao xếp cuối với tỉ lệ 16% thất nghiệp.

Giáo dục đại học có tín hiệu đáng mừng

Vấn đề thứ ba về chất lượng đào tạo, có nhiều ý kiến đánh giá cao chất lượng giáo dục Việt Nam. Vấn đề này báo chí đã nói rất nhiều. Giáo dục phổ thông, chúng ta khiêm tốn tự nhận là xếp hạng dưới 50 nhưng thực tế, như PISA chúng ta đứng khoảng 20-30. Nếu một ngành nào đó đứng dưới 20 thì đã là rất tốt so với mặt bằng chung kinh tế – xã hội ở Việt Nam. Chúng ta chỉ có 2 chỉ số đứng dưới 50, gồm chỉ số đổi mới sáng tạo và chỉ số chất lượng giáo dục phổ thông.

Còn giáo dục đại học, chúng ta đứng khoảng thứ 80 trong khu vực. Nhưng một điều đáng mừng là trong 3 năm trở lại đây chúng ta đã quyết tâm đẩy mạnh tự chủ đổi mới giáo dục đại học. Mục tiêu 3-5 năm sẽ có ít nhất 1 trường nằm trong top 1000 của thế giới. Việc kiên trì mấy năm vừa rồi làm bắt đầu có kết quả, các chỉ số nghiên cứu của Việt Nam đã tốt hơn rất nhiều, dù so với thế giới chúng ta còn khiêm tốn. Tính ra, giai đoạn 2011-2015, một giảng viên châu Á công bố 4,5 bài trên các tạp chí Scopus thì ở Việt Nam mới được 0,14 bài/ giảng viên (tức chỉ bằng 1/32 so với trung bình giảng viên ở các nước châu Á). Trường cao nhất đạt 0,7 bài/ giảng viên là trường ĐH Tôn Đức Thắng. Theo công bố vừa rồi có 10 đơn vị ở Việt Nam công bố nhiều nhất trên các tạp chí ISI.

Theo Phó thủ tướng, ba năm vừa qua, bằng tự chủ, bằng đẩy mạnh nghiên cứu chúng ta đã đạt kết quả rất đáng khích lệ. Các nhà khoa học, chuyên gia giáo dục cũng đánh giá rất cao nỗ lực của giáo dục đại học trong thời gian vừa qua.

Theo Dân trí